Skip to main content

Để nhớ một thứ lâu hơn, chúng ta liên kết nó với những kiến thức ta đã biết. Khoa học nói vậy, diễn giả TedTalk nói vậy, nhà vô địch trí nhớ của nước Mỹ cũng nói vậy.

Ý tưởng về việc liên kết những thứ chúng ta chưa biết/mới biết với những thứ đã biết tưởng chừng như rất quen thuộc (và đơn giản), nhưng không phải ai cũng áp dụng nó.

Nói đúng hơn, phương pháp tuyệt vời, nhưng không có nghĩa ai cũng áp dụng nó. Nhưng nếu áp dụng nó, thì chắc chắn sẽ trở nên vô cùng tuyệt vời. Yep. Mình đang nói tới Nicklas Luhman, cha đẻ của phương pháp ghi chú siêu đỉnh Zettelkasten.

📌 Bài viết này đặc biệt dành cho những bạn đã đọc cuốn How to take smart notes nhưng chưa thực sự hiểu được hệ thống của Luhmann, cũng như cách áp dụng nó vào cuộc sống.

Luhman – biểu tượng của sự năng suất

Nếu được lựa chọn một nhân vật để đại diện cho blog Tuanmon.com, mình chắc chắn sẽ lựa chọn Niklas Luhmann.

Niklas Luhmann là một nhà xã hội học người Đức lỗi lạc của thế kỷ 20. Trong suốt cuộc đời của mình, ông đã xuất bản hơn 70 cuốn sách và 400 bài nghiên cứu về luật, kinh tế, chính trị, tôn giáo, tình yêu, nghệ thuật, truyền thông…(urg nhiều quá…)

Chất lượng cũng là phần ấn tượng không kém so với số lượng. Các bài nghiên cứu của Luhmann đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngành khoa học xã hội thời bấy giờ, và vẫn còn được bàn luận cho tới ngày hôm nay.

Dĩ nhiên, mình không nghiên cứu về xã hội học đủ sâu để có thể mô tả được tầm ảnh hưởng của cây viết lỗi lạc này. Thay vào đó, mình sẽ vào thẳng hệ thống đã giúp Luhmann có được khối lượng nghiên cứu đồ sộ như trên.

Bản chất của Zettelkasten

Luhmann không chỉ nổi tiếng vì những học thuyết về xã hội, mà bản thân phương pháp ghi chú của ông cũng được đem ra nghiên cứu, và lấy ý tưởng để xây dựng rất nhiều ứng dụng ghi chú hiện đại ngày nay.

Trong suốt cuộc đời của mình, Luhmann chỉ sử dụng giấy và bút để ghi chú, và lưu lại tất cả thông tin vào trong những chiếc hộp gỗ mà ở trong tiếng Đức là zettelkästen (phiên bản tiếng Anh thì gọi là Slip-box). Nhưng để nói chuyện cho ngầu thì mình cứ sử dụng Zettelkasten nhé ;))

Nguồn ảnh: Levelupfun

Về cơ bản, Zettelkasten là phương pháp mà trong đó Luhmann viết và sắp xếp toàn bộ thông tin, suy nghĩ, ý tưởng trong quá trình nghiên cứu, đọc sách, trò chuyện với mọi người. Zettelkasten về bản chất là việc Luhmann ghi lại các thông tin đó vào các mẩu giấy (“Zettel”), sau đó lưu giữ chúng trong các hộp gỗ. Tuy nhiên, phải nhìn thật kĩ vào hệ thống note, cách ghi chép từng note và vào những nguyên tắc cơ bản của hệ thống này, chúng ta mới thấy hết được sự đỉnh cao vjp pro của Luhmann.

Hệ thống ghi chú Zettelkasten

Luhmann chia ghi chú của mình làm ba loại: Fleeting Notes (ghi chú trôi nổi), Literature Notes (ghi chú ngắn hạn) và Permanent Notes (ghi chú vĩnh viễn).

1. Fleeting notes

Ý tưởng của Fleeting Notes rất đơn giản: khi bạn tự nghĩ ra một điều gì đó (do tự nghĩ, hoặc do đọc một cái gì đó, nói chuyện với ai đó…) mà bạn muốn lưu lại, bạn sẽ viết nó lại rất nhanh vào đâu cũng được (do đó có cái tên trôi nổi). Thông thường thì bạn nên lựa chọn những nơi ghi chú lại để về sau dễ dàng tìm lại.

2. Literature notes

Khi đọc một quyển sách, hoặc một bài báo nào đó và gặp phải một mẩu thông tin mới, thú vị, Luhmann sẽ tóm tắt ngay nó lại vào một mẩu giấy nhỏ gọi là Literature Notes.

Nếu Luhmann muốn ghi chú lại đoạn thông tin, thay vì dùng bút gạch chân thẳng lên sách, ông sẽ chép lại vắn tắt đoạn thông tin đó, và nhắc tới nguồn của nó ở mặt trước của mẩu giấy.

Ở mặt sau, Luhmann sẽ tóm tắt (xin nhấn mạnh: tóm tắt) lại nội dung của mẩu thông tin đó theo ý hiểu của mình. Do mẩu giấy Luhmann dùng rất bé, ông phải viết một cách cực kì ngắn gọn. Cách này buộc ông phải suy nghĩ rất kĩ để có thể ghi chú vừa ngắn mà vừa dễ hiểu để bản thân sau này còn đọc lại. Đây chính là tiền đề cho việc nhớ được thông tin này lâu hơn. Bên cạnh đó, đây cũng là nơi Luhmann ghi lại những suy nghĩ riêng của mình về thông tin đó.

Một mẩu giấy của Luhmann chỉ bé thế này thôi. Nguồn ảnh: deutschlandfunkkultur

Ví dụ, bạn đọc bài viết Về sự lựa chọn của Tuấn Mon, và thấy ý tưởng về việc cải thiện năng suất để giúp bản thân cải thiện chất lượng công việc rất chí lý (quá chứ còn gì nữa!), bạn sẽ viết lại literature notes như thế này:

  • Mặt trước: câu quote xịn xò của Tuấn Mon
  • Mặt sau: cải thiện năng suất -> làm việc nhanh -> kết quả nhanh -> có nhiều feedback -> cải thiện công việc. Suy nghĩ: có khi nào làm việc nhanh hơn lại không tốt?

3. Permanent Notes

Nếu như Literature notes là những ghi chú về ý tưởng của người khác, thì permanent notes là ghi chú về ý tưởng của chính Luhmann.

Nói cách khác, permanent notes là những suy nghĩ, lập luận mà Luhmann nghĩ ra. Những suy nghĩ này được hình thành trong quá trình Luhmann thu thập, quan sát và kết nối chính những Literature notes lại với nhau.

Sự khác biệt giữa Permanent Notes và Fleeting Notes nằm ở chỗ Permanent Notes liên tục được cập nhật, và được củng cố bởi các Fleeting Notes và Literature Notes khác.

Permanent notes chính là cơ sở để Luhamnn tiếp tục tìm kiếm những thông tin, dữ liệu để củng cố hoặc phản biện lại chính luồng tư tưởng của bản thân. Nếu bạn đặt điều này trong ngữ cảnh công việc của Luhmann, bạn sẽ thấy nó cực kì có hiệu quả. Luhmann là một nhà nghiên cứu, vì vậy các bài luận của ông phải cực kì khách quan và đa chiều. Vậy thì khả năng cao những bạn đang viết khóa luận để tốt nghiệp, hay những bạn đang muốn viết các bài nghiên cứu cùng thầy cô, cũng có thể áp dụng được phương pháp này.

Ví dụ của mình: Mình hay nghe mọi người nói rằng “Dù gì thì gì, nói thật vẫn tốt nhất” (ngữ cảnh: các mối quan hệ). Sau một vài quan sát thì mình muốn bổ sung rằng “Con người muốn biết sự thật, nhưng không thích sự thật trần trụi”. Lý tưởng này của mình được rút ra qua hai quan sát:

  • Mình xem video so sánh camera của iPhone 13 và Sony Xperia Pro-i. Về mặt thông số, chiếc Sony hơn hẳn. Vậy nhưng đa số mọi người vẫn chọn iPhone 13. Vì sao? Vì camera của Sony chân thực quá, nên những bức ảnh gần như rất sát với thực tế, màu tối hơn, ám vàng hơn. Trong khi đó, ảnh của iPhone 13 có màu sắc rực rỡ hơn một chút, nét hơn một chút, sáng hơn một chút (do đã đi qua nhiều thuật toán).
  • Mình nghe bài nói chuyện của Yuval Noah (tác giả của cuốn Sapien). Trong bài nói ông có đề cập tới việc con người thích nghe kể chuyện với một vài yếu tố được thêm thắt, hơn là một sự thật không có gì trang điểm.

Và đây là permanent note của mình ở trong Obsidian. Mình ghi lại để mình tiếp tục quan sát, củng cố hoặc tự phản biện lại suy nghĩ này. Nó có thể sai, có thể đúng, mình không biết được. Nhưng ít nhất, mình có thể đưa ra một dự đoán về người đối diện khi mình chuẩn bị nói cho họ điều gì.

Đây là một permanent note của mình.

Ok. Vậy là chúng ta đã tìm hiểu về cách phân loại ở trong Zettelkasten. Mới được 30% thôi. Hãy cùng đến với các thành phần cơ bản của một note trong Zettelkasten nhé!

Permanent notes (a.k.a Evergreen notes) là thông số tuyệt vời phản ánh sự phát triển trong suy nghĩ của bạn. Mình có chia sẻ về điều này ở bài viết dưới đây 👇

Các thành phần cơ bản của một note trong zettelkasten (phiên bản Luhmann)

Một note ở trong zettelkasten (phiên bản Luhmann) được chia làm 3 phần chính: mã note (ID), nội dung, và các note liên quan.

Bản chụp một tấm ghi chú của Luhmann. Nguồn: niklas-luhmann-archiv

1. Mã note (ID)

Mỗi một ghi chú sẽ đều được đánh số (ID). Ghi chú đầu tiên thì đánh số 0. Nếu ghi chú tiếp theo không liên quan gì tới cái trước thì sẽ được đánh số 1, sau đó để đằng sau note số 0, và tương tự.

Giả sử Luhmann đã có 4 note với số 0,1,2,3. Bây giờ nếu Luhmann viết một ghi chú có liên quan tới note số 1, ông sẽ thêm chữ “a” vào (thành “1a”) để ký hiệu là cái note đó có liên quan tới cái 1. Tương tự, nếu ông viết một ghi chú cũng liên quan tới cái số 1, nhưng không liên quan tới 1a, ông sẽ gọi nó là 1b.

Nếu ông tìm thấy note liên quan tới 1a, thì ông sẽ “bẻ nhánh” ra tiếp thành 1a1, rồi 1a2… Bằng cách này, kể cả khi Luhmann đã viết hơn 90000 notes trong suốt cuộc đời, ông có thể dễ dàng tìm được những “luồng” ghi chú có chung chủ đề với nhau. Điều này rất có ích cho việc lập luận của ông trong các bài viết khoa học.

Nguồn: https://zettelkasten.de/introduction/

2. Nội dung note

Như mình đã nói ở trên, nội dung của note có thể là sự tóm tắt của chúng ta về một nội dung, hoặc có thể chính là suy nghĩ, ý tưởng của chúng ta về nội dung đó.

Nếu Luhmann đang viết Permanent notes, ông sẽ có thêm những liên kết tới các note khác (“See also 45.7a ; 45.7b / c ; 83.2c5g”) ngay ở trong phần nội dung để bổ sung cho ý tưởng mình đang viết. Việc liên kết chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của Zettelkasten giúp cho hệ thống kiến thức của chúng ta chặt chẽ, cũng như giúp chúng ta sáng tạo khi kết nối hai ý tưởng hoàn toàn không liên quan gì với nhau (cho lắm).

Phần “see also” chính là phần liên kết từ note này tới note khác

3. Các note liên quan

Khi viết permanent notes, Luhmann sẽ cố gắng suy nghĩ xem ý tưởng này có liên quan gì tới những note ông từng viết hay không, và liệt kê các note có liên quan ở phần dưới cùng để khi nào đọc lại, ông sẽ suy nghĩ thêm về nó.

Bạn có thấy việc này quen không? Yep, nó chính là việc chúng ta kết nối kiến thức mới với các kiến thức cũ – lời khuyên mà khoa học và các nhà thiên tài trí nhớ đưa ra để giúp chúng ta nhớ lâu hơn.

Đây là ví dụ về phần các note liên quan của mình:

Phần Related chính là nơi mình ghi các note có liên quan tới chủ đề hiện tại

Câu hỏi thường gặp

Với một hệ thống tới hơn 90,000 notes thì làm thế nào để Luhmann biết nên bắt đầu tìm từ đâu?

Để bản thân không bị lạc trôi trong thiên hà ghi chú này, Luhmann đã chế ra một thứ giống như mục lục dành cho hệ thống note của mình. Ở trong mục lục này, Luhmann sẽ liệt kê những Permanent notes quan trọng nhất, và chỉ vậy thôi, bởi ông biết rằng ông chỉ cần tìm được cái note đó, là ông sẽ tìm được hằng trăm note con (literature notes) liên quan tới note đó.

Đây là mẩu ghi chú mục lục để Luhmann dễ tìm kiếm

Mình cũng sử dụng một hệ thống tương tự gọi là MOC (Map of Content), nơi chứa những note quan trọng nhất của mình. Mỗi một note quan trọng sẽ link tới nhiều note quan trọng khác thuộc chủ đề mình quan tâm.

Đây là mục lục những note quan trọng nhất về phát triển bản thân của mình:

Làm thế nào để tạo mã note (ID) mà không bị rối?

Bản chất của ID là để chúng ta dễ dàng “nhắc tới” một cái note khác ở trong note hiện tại mà không phải viết tên của note đó ra (biết đâu có nhiều note trùng tên thì sao?).

Ngày nay với công nghệ, chúng ta không cần phải cầu kì viết mã note như vậy, bởi chúng ta có thể dễ dàng liên kết hai note với nhau thông qua hyperlink. Việc tìm lại những note liên quan tới nhau quá dễ dàng. Cá nhân mình không sử dụng ID mà thay vào đó mình sẽ thêm những thông tin liên quan tới note như ngày tạo, nguồn, tag, và ngữ cảnh (context). Những thông tin này giúp mình về sau tìm lại note này dễ dàng hơn (mình sẽ chia sẻ cụ thể ở bài sau).

Phần mình khoanh màu xanh là những thông tin liên quan tới note

Nguyên tắc cơ bản của Zettelkasten

Zettelkasten có hai nguyên tắc cơ bản: Liên Kết và Nguyên Tử. Để giúp bạn hình dung rõ nhất về hai nguyên tắc này (và cũng để demo cho bạn thấy luôn), mình đã tách nội dung này ra một bài viết hoàn toàn mới: Hai nguyên tắc cơ bản của Zettelkasten, mời bạn đón đọc nhé :))

Đăng ký nhận Newsletter

Nếu đây là lần đầu bạn đến với blog của mình, đừng quên đăng ký newsletters của Many One Percents cùng gần 2000 bạn đọc mỗi tuần. Những lợi ích độc quyền cho các bạn subscribers:

  • Đọc các bài blog sớm nhất (2-3 tuần trước khi mình publish lên mạng xã hội)
  • Đọc Weekly Discovery (sản phẩm thú vị nhất tuần)
  • Giveaway code để sử dụng các sản phẩm công nghệ miễn phí
  • Những cập nhật và dự định mới nhất về blog

One Comment

Leave a Reply